Muốn điều trị viêm gan B hiệu quả, cần phải tìm hiểu nguyên nhân, triệu chứng của bệnh. Sau đó tìm ran phương pháp điều trị bệnh viêm gan B tối ưu nhất.
Viêm gan B là một bệnh lý về gan nghiêm trọng được gây ra bởi virus viêm gan B (HBV). Bệnh viêm gan B có thể lây nhiễm rồi trở thành mãn tính, dẫn đến các bệnh nặng hơn như suy gan, xơ gan hoặc ung thư gan. Để có cách điệu trị viêm gan B tốt nhất, người bệnh trước tiên cần phải tìm hiểu nguyên nhân bệnh lý, sau đó mới có thể bàn đến phương pháp điều trị.
Bất cứ ai ở bất cứ độ tuổi nào cũng có thể bị nhiễm viêm gan B. Người lớn có khả năng hồi phục lại hoàn toàn nếu được điều trị kịp thời, ngay cả khi có các dấu hiệu và triệu chứng được cho là nghiêm trọng. Trẻ sơ sinh và trẻ em có nhiều khả năng để phát triển thành một bệnh viêm gan B mãn tính. Mặc dù không có bất cứ một loại thuốc nào chữa dứt điểm bệnh viêm gan B hay một loại vắc xin có thể ngăn ngừa được bệnh. Khi biết mình đã bị nhiễm bệnh, hãy cố gắng ngăn ngừa khả năng lây lan virus HBV cho người khác.
cách điều trị viêm gan b
Nguyên nhân cơ bản khiến cho việc chữa viêm gan B trở nên khó khăn
Thông qua nhiều điều tra, chúng tôi đã phát hiện đa số các bệnh nhân do đã nhiều lần sử dụng những phương pháp điều trị hay sử dụng các loại thuốc không giống nhau nên cuối cùng bệnh tình không thể chữa khỏi. Từ đó, bệnh nhân trở nên chán nản mà từ bỏ điều trị, làm bệnh tình ngày càng trở nên xấu đi, tính mạng ngày càng bị đe dọa. Hầu hết chúng ta đều biết rằng các bước phát triển của bệnh viêm gan B là từ viêm gan đến xơ gan rồi giai đoạn cuối cùng là ung thư gan. Nếu như không có các giải pháp khống chế kịp thời, bệnh sẽ phát triển thành xơ gan rồi đến ung thư gan, bệnh nhân phải đối mặt với sự đe dọa của cái chết.
Vậy cách nào có thể điều trị khỏi bệnh viêm gan B ?
Nói về vấn đề cách điều trị viêm gan B, một số chuyên gia của chúng ta cho biết: để điều trị viêm gan B cần có một một quá trình hoàn chỉnh. Phương pháp điều trị tốt nhất cần có tính chuyên nghiệp, quy phạm, khoa học, điều trị chính xác bệnh thì mới có thể có được hiệu quả tốt nhất, mới được coi là cách điều trị viêm gan B tốt nhất.
Các phương pháp điều trị viêm gan B:
1. Thuốc điều trị viêm gan B mạn tính
Mục đích chính trong việc chữa trị bệnh viêm gan B mạn tính là giảm
thiểu sự tăng trưởng của virut, ngăn ngừa sự xâm nhập của virut viêm gan
B (HBV) vào tế bào gan. Tuy nhiên, mục tiêu tối hậu vẫn là loại bỏ hoàn
toàn HBV ra khỏi cơ thể, bình thường hóa chức năng của gan, phục hồi
chất lượng cuộc sống, kéo dài thời gian sống, loại bỏ các biến chứng suy
gan, xơ gan và ung thư gan.
Hiện nay, Cơ
quan quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA) trên cơ sở các hội nghị thỏa
thuận của Hội gan mật thế giới và các châu lục đã chấp thuận chính thức
để điều trị viêm gan B mạn tính các thuốc sau đây: thuốc tiêm interferon
và pegylated interferon, các thuốc uống: lamivudin, adefovir dipivoxil
và entecavir.
- Thuốc tiêm interferon:
interferon là một chất hóa học quan trọng trong hệ thống miễn dịch cơ
thể, giúp cho hệ thống miễn dịch nhận diện các virut hoặc các vi khuẩn
có hại xâm nhập vào cơ thể để tấn công và tiêu diệt chúng. Interferon là
loại thuốc đã được nghiên cứu và ứng dụng lâu năm nhất để điều trị viêm
gan B mạn. Trên thị trường chính thức có 2 loại interferon: interferon
alpha 2a (biệt dược roferol) và interferon 2b (biệt dược intron A).
Thuốc tiêm dưới da trong 6 - 12 tháng. Trong những năm gần đây người ta
bào chế ra một loại thuốc interferon mới, gọi là pegylated interferon
(biệt dược pegasys, pegintron), công hiệu tốt hơn interferon và chỉ cần
tiêm 1 lần 1 tuần. Interferon và peginterferon có tác dụng tốt trên
khoảng 1/3 số bệnh nhân được điều trị.
Thuốc
này có bất tiện là phải tiêm, giá thành đắt, lại có nhiều phản ứng phụ,
có phản ứng nhẹ, chịu được (như đau, sốt nhẹ lúc mới tiêm, hiện tượng
mệt mỏi giống như cảm cúm); có loại nặng hơn (ảnh hưởng đến máu, giảm
hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, ảnh hưởng tuyến nội tiết). Thuốc cũng
không dùng được nếu gan đã bị xơ, chức năng kém. Vì vậy, phương pháp
interferon cũng còn nhiều hạn chế, tuy vẫn là một phương pháp tốt, có
thời gian sử dụng được xác định, có thể áp dụng, nhất là đối với người
trẻ.
- Lamivudin:
(biệt dược epivir-HBV và zeffix) đã được sử dụng khoảng 10 năm nay.
Thuốc có tác dụng ban đầu tốt trên nhiều bệnh nhân nhưng có nhược điểm
là tỷ lệ kháng thuốc cao do biến đổi gen YMDD (mỗi năm khoảng 15-20%),
đôi khi xảy ra cơn kịch phát bệnh, do đó làm trở ngại cho việc sử dụng
lâu dài. Không nên dùng thuốc khi có thai vì thuốc có thể ảnh hưởng xấu
đến sự tăng trưởng của thai.
- Adefovir dipivoxil:
(biệt dược hepsera) có công hiệu cả trong các chủng HBV hoàng đại cũng
như các chủng đã kháng lamivudin. Tỷ lệ kháng adefovir thấp hơn kháng
lamivudin rất nhiều, tuy nhiên, tỷ lệ này cũng đến 28% sau 5 năm.
Adefovir có thể dùng điều trị lâu dài có kết quả và an toàn cao, tuy vậy
cũng cần theo dõi chức năng thận bằng xét nghiệm creatinin.
- Entecavir:
(biệt dược baraclude) được chấp nhận gần đây nhất (đầu năm 2005), tỷ lệ
kháng thuốc chưa thấy công bố sau 2 năm điều trị. Song, cũng có một số
ít trường hợp kháng thuốc được phát hiện ở những ca đã kháng lamivudin.
Những tài liệu đã được công bố cho thấy baraclude có công hiệu tốt đối
với viêm gan B mạn. Thuốc nên uống lúc đói, khi điều trị lâu dài cần
theo dõi chức năng thận bằng xét nghiệm creatinin.
Đối
với cả 3 loại thuốc uống đều không được ngừng thuốc một cách đột ngột
nếu không được hướng dẫn của bác sĩ vì có thể gây ra những cơn bùng nổ
của bệnh, gây ra những hậu quả tai hại.
Ngoài các thuốc được chính thức công nhận ở trên, còn có một số loại thuốc được sử dụng như:
Zadacin thymosin alpha 1:
chữa viêm gan B bằng cách tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể.
Thuốc có thể tiêm dưới da, 2 lần mỗi tuần, tiêm riêng hoặc tiêm kèm với
interferon hay thuốc uống lamivudin adefovir.
Cycloferon:
thuốc uống của Liên bang Nga, được Bộ Y tế Việt Nam cho phép nhập.
Thuốc uống ít tác dụng phụ, giá rẻ, dùng để kích thích cơ thể tạo ra
interferon.
Các thuốc y học cổ truyền được phép của Bộ Y tế làm từ thảo mộc phyllantus amarus (như Liv 94, siro hebevera...), từ momordica cochinchinensis (như gacavit...).
Các thuốc này an toàn, giá phải chăng nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu khoa học quốc tế xác nhận kết quả chính thức.
Tóm
lại, các cách điều trị viêm gan B mạn tính hiện nay chỉ có khả năng
giảm thiểu sự tàn phá của virut HBV chứ không hoàn toàn loại bỏ virut ra
khỏi cơ thể. Việc loại bỏ virut tuy có trường hợp đạt được nhưng là hãn
hữu, không bảo đảm được. Vì thế, hơn lúc nào hết, phòng bệnh vẫn hơn
chữa bệnh. Hiện nay nước ta đã sản xuất được vaccin phòng viêm gan B có
hiệu quả, giữ vệ sinh đúng cách và tiêm chủng đúng phương pháp có thể
ngăn ngừa được bệnh cho những người chưa bị bệnh viêm gan B mạn tính.
2. Điều trị viêm gan B cấp tính
Nguyên tắc điều trị bằng thuốc thời kỳ cấp tính chủ yếu là tiêu viêm
giải độc, bảo vệ gan, hạ enzyme, giải vàng da, điều tiết miễn dịch.
Có ba phương pháp chủ yếu để điều trị “viêm gan B cấp tính”:
2.1) Chú ý nghỉ ngơi
Thời kỳ cấp tính, tế bào gan bị virus viêm gan B
làm tổn hại nên phù trương và hoại tử, do vậy một khi xác định đúng cần
phải lập tức nằm nghỉ ngơi, nằm vài ngày cho bệnh ổn định Chủ yếu dựa
vào sự suy giảm của vàng da hoặc gần trở lại bình thường, chức năng gan
cơ bản hồi phục. Thời gian quan sát từ 1-3 tháng, cần phải kiên trì điều
trị đề phòng tái phát.
2.2) Chú ý về ăn uống
Ăn
uống có ảnh hưởng nhất định đối với việc hồi phục viêm gan, nguyên tắc
ăn uống là dung những thức ăn giàu protein, vitamin, ít chất béo làm
chính. Tránh ăn cay và những chất kích thích có tính nóng như ớt, hành
tây, tiêu, bột cari, cà phê, ca cao, trà đặc.
Tránh
ăn những thức ăn giàu purin như gan và thận của heo, rau chân vịt, đậu
nành, thị, cá và gà. Tránh chiên dầu mỡ, thức ăn chiên xào và có xơ thô.
2.3) Điều trị bằng thuốc
a) Thuốc giảm chứng viêm
Potenlin,
dịch tiêm potenlin (chứa 0,2% potenlin, 0,1% cystein và 2% glycin) kết
hợp với dung dịch glucose 10% tiêm tĩnh mạch, liệu trình từ 1 - 3 tháng,
tỷ lệ hiệu quả tổng hợp và hạ enzyme khoảng 70 - 80%
b) Thuốc bảo vệ gan
Trên
lâm sang inosin, ATP và coenzyme A, thường dùng tổ hợp thành “thuốc hỗn
hợp năng lượng” (coenzyme A, ATP, insulin, glucose, muối kali), có thể
thúc đẩy sự chuyển hóa đường và quá trình chuyển hóa những chất khác, có
lợi cho phục hồi chức năng gan.
Glucorolacton:
tế bào gan sau khi lấy acid glucuronic va bilirubin, chất phế thải từ
chuyển hóa, thuốc, chất độc kết hợp lại bài tiết ra ngoài qua mật; có
tác dụng giải độc gia tăng glucogen, giảm chất béo tích trữ trong gan.
Những loại khác như vitamin B12, acid folic, niacin, vitamin B2… có tác dụng hồi phục gan.
c) Thuốc điều tiết miễn dịch
Interferon: Trong ba loại interferon, tác dụng chống virus của interferon-alpha mạnh nhất, nhưng tác dụng phụ lại lớn.
d) Thuốc hạ enzyme
Bifendat: Có tác dụng hạ enzyme rõ, tăng cường chức năng giải độc gan.
e) Thuốc giải trừ vàng da
Phenobarbital:
Là loại thuốc an thần giúp ngủ ngon có hiệu quả lâu. Vì nó là loại thẩm
thấu enzyme, nên khi điều trị bệnh gan có thể dung trừ vàng da.
11 Khuyến cáo điều trị viêm gan B virus
Tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B ở Việt Nam là rất cao (khoảng 15% - 25% dân
số) và việc điều trị căn bệnh viêm gan B thường rất khó khăn và tốn
kém. Tổ chức AASLD – EASLD của Hoa Kỳ có đưa ra một số khuyến cáo sau:
1) Khi nào thì làm xét nghiệm HBsAg?
Nên tiến hành xét nghiệm cho tất cả người dân, vì tỷ lệ nhiễm virut viêm gan B ở Việt Nam là rất cao (15-25% dân số). Nếu HBsAg âm tính (-) thì nên tiêm phòng vaccin phòng nhiễm virut viêm gan B.
2) Những xét nghiệm cần thiết nào để theo dõi và điều trị viêm gan B?
Các xét nghiệm cơ bản để theo dõi và điều trị viêm gan B bao gồm:
- Miễn dịch học: HBsAg, HBeAg, antiHBe, antiHBc IgM, antiHBc IgG, HBV DNA, AFP
- Siêu âm ổ bụng (gan, mật, …)
- Xét nghiệm công thức máu (HC, BC, TC…)
3) Khi nào thì làm các xét nghiệm HBeAg, anti HBe?
Khi mới phát hiện HBsAg dương tính (+) hoặc với bệnh nhân có điều trị thuốc kháng virut viêm gan B, thì nên xét nghiệm HBeAg và anti-Hbe định kỳ 3 - 6 tháng/lần.
4) Khi nào thì làm xét nghiệm HBV DNA?
Khi Enzyme gan tăng: AST > 40 IU và ALT >40 IU
5) Hiện nay có những thuốc nào được Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho phép điều trị?
Các loại thuốc sau được FDA cho phép điều trị:
- Baraclude (Entecavir)
- Epivir-HBV (Lamivudine; 3TC)
- Hepsera (Adefovir dipivoxil)
- Intron A (Interferon alfa-2b), Pegasys (Peginterferon alfa-2a)
- Viread (Tenofovir)
- Tyzeka (Telbivudine)
6) Thuốc kháng virut khi nào cần điều trị?
Có 03 tình huống sau nên điều trị thuốc kháng virut viêm gan B, bao gồm:
- Khi ALT > 40 IU và HBV DNA > 105 copies/ml nếu HBeAg (+);
- Khi ALT > 40 IU và HBV DNA > 104 copies/ml nếu HBeAg (-);
- Khi
bệnh nhân sẽ sử dụng hóa chất hoặc thuốc ức chế miễn dịch điều trị ung
thư có HBsAg (+), ALT<40 IU, HBV DNA > 102 copies/ml.
7) Khi nào thì xét làm nghiệm tìm đột biến gene HBV kháng thuốc?
Khi đang điều trị thuốc kháng virut mà HBV DNA tăng lên so với lần kiểm tra trước.
8) Định kỳ theo dõi các xét nghiệm AST, ALT, HBV DNA, HBeAg, antiHBe, AFP, Siêu âm như thế nào?
Có 3 tình huống sau:
- Nếu
AST, ALT < 40 IU thì kiểm tra AST, ALT mỗi tháng/lần trong 3 tháng
đầu; sau đó kiểm tra AST, ALT, AFP, Siêu âm 3 - 6 tháng/lần. Không cần
kiểm tra HBV DNA, HBeAg, antiHBe.
- Nếu AST, ALT > 40 IU và HBV DNA<104 copies/ml thì kiểm tra AST, ALT mỗi tháng/lần; HBV DNA, AFP, Siêu âm 3-6 tháng/lần.
- Nếu đang điều trị thuốc kháng virut thì nên kiểm tra AST, ALT, HBV DNA, HBeAg, Anti HBe, AFP, và Siêu âm 3-6 tháng/lần.
9) Mục tiêu của việc điều trị thuốc kháng virut là gì ?
Kết quả điều trị thuốc kháng virus phải đạt được: AST/ALT
< 40 IU, chuyển đảo huyết thanh HBeAg (+)/anti HBe (-) → HBeAg
(-)/anti HBe (+)}, HBV DNA < 103 copies/ml, cải thiện mô bệnh học,
HBsAg (-).
10) Sau điều trị viêm gan B tỷ lệ khỏi bệnh là bao nhiêu %?
Tỷ lệ
khỏi bệnh phụ thuộc nhiều yếu tố như: Loại thuốc, kiểu gen của virut
viêm gan B. Tỷ lệ HBsAg (-) dao động từ 1-15% tùy theo kiểu gene HBV.
11) Tỷ lệ Virut kháng thuốc có cao không?
Sau
5 năm Lamivudine đã bị kháng 70%, Entecavir chỉ bị kháng 1,2%; sau 4
năm Adefovir đã bị kháng 29%; sau 2 năm Telbivudine đã bị kháng 17%; chỉ
có Tenofovir là chưa bị kháng sau 3 năm điều trị. Như vậy, chỉ có
Entecavir và Tenofovir là đang cho thấy có hiệu quả nhất.